Tóm tắt quan điểm của Mao Trạch Đông về chiến tranh Việt Nam và “Mặt trận Giải phóng Miền Nam”
Trong suốt cuộc chiến Việt Nam, quan điểm chính trị và quân sự của Mao Trạch Đông thay đổi nhiều lần. Từ một Mao chủ hòa sau hiệp định Geneva trở thành một Mao chủ chiến trong giai đoạn đầu của cuộc chiến vào thập niên 1960 và lần nữa trở về với Mao chủ hòa sau Thông Cáo Chung Thượng Hải ngày 27 tháng Hai 1972.
Mao và lý luận “chiến tranh giải phóng dân tộc”
Phát xuất từ quan điểm cố hữu “lấy nông thôn bao vây thành thị” và cũng vì không đủ khả năng để trực tiếp đương đầu với Mỹ, Mao chủ trương gây khó khăn cho Mỹ, kẻ thù chính của Trung Cộng trong giai đoạn từ 1949 đến 1972, qua hình thức chiến tranh cách mạng tại bất cứ quốc gia nào Mỹ đang có quyền lợi hay có thể tạo ảnh hưởng.
Trong dịp tiếp phái đoàn báo chí Chile ngày 23 tháng Sáu 1964, Mao tuyên bố: “Chúng tôi chống chiến tranh, nhưng chúng tôi ủng hộ các cuộc chiến chống chủ nghĩa đế quốc do các dân tộc bị áp bức phát động”. Từ Phi Châu, Nam Mỹ, và Á Châu, Mao tích cực yểm trợ võ khí và cơ sở lý luận cho các phong trào “giải phóng dân tộc”, chống “đế quốc thực dân”. Các phong trào Maoist lan rộng khắp nơi, từ Nepal bên rặng Hy Mã Lạp Sơn ở Á Châu cho đến tận những cánh đồng ở Ecuador, Nam Mỹ.
Trong mắt Mao, ba “anh hùng” được xem là những lãnh tụ tiêu biểu của phong trào “giải phóng dân tộc” là Hồ Chí Minh tại Á Châu, Fidel Castro tại Nam Mỹ, và Ben Bella tại Phi Châu. Trong số ba “anh hùng” đó, Hồ Chí Minh và đảng CSVN vì lý do ý thức hệ và địa lý chính trị, được Mao quan tâm nhất và bằng mọi giá phải nắm chặt trong tay.
Khi phong trào giải thực bước vào giai đoạn chót vào cuối thập niên 1960, hầu hết các nước thuộc địa đã được trao trả quyền độc lập hoàn toàn hay độc lập trong khuôn khổ thịnh vượng chung. Hai trong số ba nước tiên phong gồm Algeria và Cuba nghiêng về phía Liên Xô, Mao chỉ còn lại một đàn em trung thành duy nhất ở Á Châu là CS Bắc Việt. Mao tìm mọi cách để kiểm soát CSVN về mọi mặt từ giáo dục tuyên truyền, đường lối lãnh đạo cho đến kinh tế, văn hóa, xã hội.
Mao và quan điểm về chiến tranh Việt Nam
– Sau hiệp định Geneva 1954 đến 1964: Trung Cộng là nguồn cung cấp duy nhất cho CS Bắc Việt, không chỉ từ chén cơm manh áo mà cả lý luận tư tưởng. Nói chung đời sống từ vật chất đến tinh thần của đảng CSVN lệ thuộc sâu xa vào đảng CSTQ. Khắp miền Bắc, từ công sở đến gia đình, hình ảnh của Mao được đặt trên mức linh thiêng.
Hồ Chí Minh và lãnh đạo CSVN đã thi hành một cách nghiêm chỉnh hầu hết các mệnh lệnh đầy tai họa từ Mao và các chính sách phi nhân này đã dẫn đến cái chết oan uổng của nhiều trăm ngàn người dân Việt Nam vô tội qua các chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất. Sau tổn thất nặng nề trong chiến tranh Triều Tiên, Mao có ý định tập trung vào các chính sách đối nội, và cũng muốn CSVN đặt thứ tự ưu tiên vào việc CS hóa xã hội miền Bắc trước. Tuy nhiên, để đồng thuận với đảng CSVN anh em, Mao cũng đã tích cực yểm trợ quân sự trong chủ trương CS hóa Việt Nam bằng võ lực. Tổng số viện trợ quân sự của Trung Cộng trong giai đoạn này gồm 320 triệu yuan, 270 ngàn súng ngắn, 10 ngàn pháo, 200 triệu viên đạn, 2.02 triệu đạn pháo, 1 ngàn xe tải, 25 máy bay, 1.18 triệu bộ quân phục.
– 1964 đến 1965: Thái độ của Mao đối với chiến tranh trở nên kiên quyết hơn. Cuối năm 1964, Hồ Chí Minh chủ trương cân bằng ảnh hưởng giữa Liên Xô và Trung Cộng mong nhận được viện trợ của cả hai để theo đuổi mục tiêu CS hóa toàn cõi Việt Nam. Điều này làm Mao lo lắng. Mao sai Đặng Tiểu Bình, lúc đó là Tổng Bí Thư đảng CSTQ, bí mật thăm Hà Nội và hứa viện trợ Hà Nội một tỉ yuan nếu Hà Nội từ chối viện trợ của Liên Xô. Ngoài ra, Mao cũng cứng rắn chống lại mọi sáng kiến chấm dứt chiến tranh Việt Nam bằng phương tiện đàm phán. Mao nói thẳng với Kosygin, Chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng Liên Xô, trong chuyến viếng thăm của ông ta tới Bắc Kinh ngày 11 tháng Hai, 1965, “Liên Xô không được dùng Việt Nam để mặc cả với Mỹ”. Mao cũng từ chối đề nghị của Liên Xô về một phiên họp thượng đỉnh giữa ba đảng CS để thảo luận về đường lối chiến tranh Việt Nam. Mao xem đảng CSVN chẳng khác gì một xứ bộ của đảng CSTQ.
– 1965 đến 1972: Khi chiến tranh Việt Nam gia tăng cường độ, Lê Duẩn, trưởng phái đoàn đại diện đảng CSVN, trong chuyến viếng thăm Trung Cộng tháng Tư 1965, đã chính thức yêu cầu Mao gởi quân sang Việt Nam. Đáp lại lời thỉnh cầu của Lê Duẩn, Mao gia tăng hàng loạt viện trợ quân sự cho CS Bắc Việt. Tháng Sáu 1965, các sư đoàn Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc tiến vào miền Bắc Việt Nam. Đến tháng Ba 1968, tổng số quân Trung Cộng có mặt tại miền Bắc là 320 ngàn quân với tất cả phương tiện yểm trợ và trang bị vũ khí đầy đủ.
Các cuộc dội bom ồ ạt của Mỹ lên miền Bắc gây tổn hại trầm trọng trong mọi lãnh vực kinh tế, quốc phòng của CS Bắc Việt. Cùng lúc đó, Liên Xô, các nước CS Đông Âu, và đồng minh của Mỹ Tây Âu khuyến khích CS Bắc Việt và Mỹ ngồi vào bàn hội nghị để tìm cách giải quyết chiến tranh Việt Nam. CS Bắc Việt đồng ý. Chủ trương của lãnh đạo CS Bắc Việt lúc đó là vừa đánh vừa đàm để tận dụng mọi cơ hội có lợi nhất cho mục đích tối hậu CS hóa Việt Nam và đồng thời dùng bàn hội nghị để mặc cả Mỹ giảm mức độ ném bom. Ngoài ra, Hồ Chí Minh lo ngại Mỹ sẽ tăng cường thêm 100 ngàn quân tại miền Nam như y đã trao đổi với Mao vào tháng Sáu 1965.
Mao thì khác. Mao chống đối phương pháp thương thuyết và chủ trương kéo dài chiến tranh càng lâu càng tốt. Chủ trương kéo dài chiến tranh của Mao phát xuất từ ba lý do: (1) Mao muốn tiếp tục làm tiêu hao khả năng của Mỹ, (2) chứng tỏ vai trò lãnh đạo của Mao trong thế giới thứ ba, (3) dùng chiêu bài chống đế quốc xâm lược để củng cố vai trò cai trị của Mao tại lục địa Trung Quốc.
– Thông Cáo Chung Thượng Hải 1972 đến 30-4-1975: Quan hệ giữa Trung Cộng và Liên Xô ngày càng xấu và khó có cơ hội hòa giải giữa hai nước CS hàng đầu. Chỉ riêng năm 1969, đã có tới 400 vụ đụng độ dọc biên giới. Đáp lại ý định rút lui khỏi Việt Nam của TT Richard Nixon, Mao nghĩ đã đến lúc phải bắt tay với Mỹ để tránh bị bao vây cả hai mặt bằng hai kẻ thù mạnh nhất nhì trên thế giới. Sau chuyến viếng thăm Trung Cộng của TT Richard Nixon cuối tháng Hai 1972, tới phiên Mao cổ võ một giải pháp hòa bình cho cuộc chiến Việt Nam mà trước đó không lâu ông ta đã chống lại.
Mao và “Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam”
Hôm nay cả thế giới đều biết những tổ chức được gọi là “Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam” hay “Chính phủ Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” đều chỉ là các bộ phận thuộc đảng bộ miền Nam do Trung Ương Cục Miền Nam, tên mới của Xứ ủy Nam Bộ đảng Lao Động, lãnh đạo.
Tổ chức gọi là “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam”(MTDTGPMNVN) hay thường được gọi tắt là “Mặt trận Giải phóng Miền Nam”được thành lập ngày 20 tháng 12, 1960 với mục đích: “Đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, tay sai đế quốc Mỹ; thành lập một chính quyền liên minh dân tộc dân chủ rộng rãi ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc, tự do, dân chủ, cải thiện dân sinh, giữ vững hòa bình, thi hành chính sách trung lập, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc, tích cực góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới.”
Bí thư Trung Ương Cục đầu tiên là Nguyễn Văn Linh, Ủy viên Bộ chính tri đảng Lao Động Việt Nam. Tháng 10 năm 1964, nhu cầu quân sự gia tăng, Nguyễn Chí Thanh được điều vào Nam làm Bí thư Trung ương Cục kiêm Bí thư Quân ủy Miền. Từ 1967 đến 1975, Trung ương Cục miền Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Phạm Hùng, Ủy viên Bộ chính trị kiêm Chính ủy các lực lượng vũ trang miền Nam. Đầu năm 1961, “Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam” cũng được Trung Ương Cục Miền Nam thành lập. Dù chỉ trên danh nghĩa, “quân giải phóng” này lẽ ra phải trực thuộc “MTDTGPMNVN”, tuy nhiên, theo nội dung chỉ thị của Tổng Quân ủy CSVN tháng 1 năm 1961 nhấn mạnh: “Quân giải phóng miền Nam Việt Nam là một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam, do Đảng sáng lập và xây dựng, giáo dục và lãnh đạo”.
Đáp ứng nhu cầu tạo thế đối trọng với chính phủ VNCH, ngày 8 tháng 6, 1969, Trung Ương Cục thành lập thêm một tổ chức mới gọi là “Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam” do Huỳnh Tấn Phát, đảng viên CS từ thời 1945 làm Chủ tịch và Nguyễn Thị Bình làm Bộ trưởng Ngoại Giao.
Nhân dịp đánh dấu 40 năm hiệp định Paris, các cơ quan tuyên truyền của đảng ca ngợi bà Bình là “nhà ngoại giao sáng tạo linh hoạt”. Điều đó không đúng. Về nguyên tắc lãnh đạo, vai trò của “Chính phủ Lâm thời” trong đó có “Bộ trưởng Ngoại Giao Nguyễn Thị Bình” chỉ là mặt nổi đối ngoại, tất cả lời ăn tiếng nói của bà đều được chỉ thị từ đảng ủy bên trong, đứng đầu là Lê Đức Thọ. Chắc bà Bình cũng phải thừa nhận, dưới sự lãnh đạo của đảng CS, mọi “sáng tạo linh hoạt” cá nhân là những điều cấm kỵ.
Dù sao, trước 1975, nhờ che đậy dưới mục đích rất nhân bản và lương thiện “dân tộc dân chủ rộng rãi ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc, tự do, dân chủ, cải thiện dân sinh, giữ vững hòa bình, thi hành chính sách trung lập”,“MTDTGPMNVN” đã thu hút khá đông “trí thức” miền Nam về phía họ và nhanh chóng làm suy yếu cơ chế chính trị dân chủ còn rất non trẻ ở miền Nam.
– Mao ve vãn các lãnh đạo “Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam”: Không ai hiểu con bằng cha mẹ, tác giả của sách vở mà CSVN dùng là của Mao và đường lối CSVN dùng cũng là của Mao đã từng áp dụng tại Trung Quốc như trường hợp Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc, gọi tắt là Chính Hiệp sau 1949. Chủ tịch của các Hiệp Chính này không ai khác hơn là những lãnh đạo tối cao của đảng. Mao Trạch Đông chủ tịch khóa I (1949-1954), Chu Ân Lai chủ tịch các khóa II, III, IV (1954-1976), Đặng Tiểu Bình chủ tịch khóa V (1978-1983) Đặng Dĩnh Siêu chủ tịch khóa VI (1983-1988), Lý Tiên Niệm chủ tịch khóa VII (1988-1992) v.v…
Qua kinh nghiệm lãnh đạo Chính Hiệp tại Trung Quốc, Mao biết dù sao vẫn còn tồn tại một thành phần ngây thơ trong hàng ngũ “MTDTGPMNVN” nên sau Thông Cáo Chung Thượng Hải, Mao tìm cách khai thác và ve vãn hàng ngũ này. Điều Mao dự đoán không sai nhưng không đủ thế và lực để tạo ra ảnh hưởng lớn. Sau 1975 các thành phần ngây thơ này tập trung dưới hình thức Câu Lạc Bộ Kháng Chiến và nhiều trong số họ đã bị bắt.
Mao tiếp Nguyễn Thị Bình tại Bắc Kinh ngày 29 tháng Hai 1972 và nói với bà Bình “Chúng ta thuộc vào một gia đình. Bắc Việt, Nam Việt, Đông Dương, Triều Tiên cùng một gia đình và chúng ta ủng hộ lẫn nhau. Nếu các bạn thành công tại hội nghị Paris, không chỉ Nam Việt mà Bắc Việt cũng đạt đến mức bình thường hóa với Mỹ ở mức độ nào đó”.
Tháng 11, 1973, Nguyễn Hữu Thọ và phái đoàn MTDTGPMNVN thăm Bắc Kinh. Phái đoàn của y được Mao tiếp đón nồng nhiệt và hứa các khoản viện trợ không hoàn trả. Các thành viên trong phái đoàn MTDTGPMNVN ngạc nhiên trước cách đối xử khác biệt của Mao. Trương Như Tảng, Bộ trưởng Tư Pháp của “Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam”, kể lại trong vài ngày đầu thăm viếng Bắc Kinh, các lãnh đạo Bắc Kinh tưởng Trương Như Tảng là người của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa nên tỏ ra lạnh nhạt, nhưng khi biết y là thành phần của phái đoàn Nguyễn Hữu Thọ, họ đã trở nên niềm nở.
– Mao và chủ trương hai nước CS Việt Nam: Chiều ngày 11 tháng 8, 1975, Đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc Daniel P. Moynihan, hai lần đưa tay phủ quyết đơn xin gia nhập Liên Hiệp Quốc của cả Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa lẫn Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam sau khi đơn gia nhập của Nam Hàn bị bác bỏ tuần trước đó. Với lãnh đạo CSVN, việc hai miền CS Việt Nam cùng tham gia vào LHQ chỉ là một chiến thuật đối ngoại về mặt nhà nước, nhằm “hợp thức hóa” việc cưỡng chiếm miền Nam của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và gia tăng áp lực buộc Hoa Kỳ phải viện trợ để “tái thiết Việt Nam”. Về mặt lãnh đạo, chỉ do một đảng CSVN mà thôi.
Mao biết khuynh hướng thân Liên Xô trong lãnh đạo CSVN và hy vọng lãnh đạo CSVN tại miền Nam hay gốc miền Nam sẽ có một khuynh hướng khác. Những ve vãn của Mao đối với MTDTGPMNVN cũng chỉ là hành động “còn nước còn tát”. Bắt được ý định đó, Hoa Kỳ đưa ra một “giải pháp trọn gói” tức cả bốn nước Đông Nam Á gồm Bắc Hàn, Nam Hàn, Bắc Việt, Nam Việt cùng vào LHQ. Trung Cộng không chấp nhận. Mao, vào thời gian đó, sức khỏe yếu dần nhưng đã đóng vai trò quyết định trong “giải pháp trọn gói” của Mỹ.
Mao và lãnh đạo Trung Cộng khi ủng hộ chủ trương hai Việt Nam không phải phát xuất từ lòng thương xót Việt Nam Cộng Hòa hay người dân miền Nam mà chỉ muốn tiếp tục chi phối chính trị Việt Nam qua vai trò của Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên để trả giá cho chính sách đó bằng việc chấp nhận Nam Hàn vào LHQ, Mao cho rằng không tương xứng. Vì Mao không đồng ý “giải pháp trọn gói” tức cả bốn nước cùng vào LHQ nên chiều ngày 11 tháng 8, 1975, Đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc Daniel P. Moynihan Mỹ phủ quyết CS Bắc Việt và CS Nam Việt.
Tìm hiểu quan điểm của Mao qua các giai đoạn của cuộc chiến để thấy phía sau những khẩu hiệu tuyên truyền đường mật, dã tâm của Mao vẫn là khống chế Việt Nam bằng mọi cách. Tập Cận Bình hãnh diện là truyền nhân của Mao, do đó, đọc lại Mao để có thể đo lường những bước đi tới của họ Tập. Ngoài các đặc điểm kế thừa từ Mao, Tập Cận Bình còn đi xa hơn khi tham vọng bành trướng cả Á Châu.
CSVN ngày nay không còn chọn lựa nào khác hơn là quy phục Trung Cộng để tiếp tục tồn tại và duy trì quyền cai trị đất nước. Chọn lựa duy nhất của các tầng lớp người Việt Nam yêu nước hiện nay là đóng góp hết sức mình vào cuộc vận động dân chủ tại Việt Nam. Dân chủ hóa Việt Nam là phương cách “thoát Trung” đúng đắn và phù hợp với sự phát triển văn minh thời đại nhất. Mục tiêu đầu tiên trong tiến trình dân chủ hóa là tháo gỡ cho được cơ chế chính trị xã hội độc tài CS hiện nay.
Tham khảo:
– Discussion between Mao Zedong and Nguyen Thi Binh. December 29, 1972. Wilson Center.
– Chen Jian (1995), China’s Involvement in the Vietnam War, 1964-69, Cambridge University Press.
– Rosemary Foot, John Gaddis, Andrew Hurrell (2002). Order and Justice in International Relations. Oxford.
– Yang Kuisong (2002). Changes in Mao Zedong’s Attitude toward the Indochina War, 1949-1973. Woodrow Wilson International Center for Scholars.
– Qiang Zhai (2002). China & The Vietnam Wars, 1950-1975. University of North Carolina Press.
– Eric J Ladley (2007) Balancing Act: How Nixon Went to China and Remained a Conservative. iUniverse.
– Trương Quảng Hoa. Hồi kí cố vấn Trung Quốc. Diendan.org.
– New York Times, August 7, 1975 và August 12, 1975
– Trần Gia Phụng (2016). Lịch Sử Sẽ Phán Xét, Nhà xuất bản Non Nuoc, Toronto, Canada.
NÍ NUẬN BẤT ĐỒNG
*
Chân dung quyền lực nắng cực đá bèo
Xóa đói giảm nghèo heo đi lộn chỗ
Quan vào nhà thổ thập diện Đỗ Mười
Đi nhai đứng ngậm ngồi cười kinh kông khỉ đột giống lười luận ngủ công
*
Trịnh Xuân Thanh Phạm Văn Đồng Formosa ngã Ba Đình nã đô la
Chỉ Huy Đức cống Kê Gà
Tô Lâm rúp hét phăng xoa tử cấm thành
Một là ngộ Nguyễn Bá Thanh hai theo Phú Trọng̣ Trấn Thành Phùng Quang Thanh
*
Bành Lệ Viện an dưỡng trí nhanh
Dương Khiết Trì kéo Nhậm Ngả Hành
Lệnh Hồ Xung trận thiên lý mã
Cổng Trời Tố Hữu núi Bà Đanh
*
Học trò đồng chí lưu manh đồng trào khốn nạn sở khanh Tập Cận Bình
Đinh La Thăng Đinh Thế Huynh
Quỳnh Lưu Quang Vũ Xuân Quỳnh hận giao thông
Văn Cao Ní Nuận bất đồng Quốc ca ôm nỗi sầu đông sơn tặc cầu
*
TÂM THANH
ThíchThích
Dòng Thơ Trường Ca Chùm 5
Nực Cười Trung Hiếu
Trường ca cảm đối từ Trường Ca phần 72 của Paul Nguyễn Hoàng Đức
Nực cười cái đám ngu trung
Lại còn ngu hiếu mánh mung buôn người
Thằng cha thiên tử giết người
Con dân nô lệ hết lời ngợi khen
Đại phu Tàu khựa thổi kèn
Bút nô nam Việt ho hen chẳng còn
Miền trung khu trớ sắt son
Bàn thờ gia trưởng đỏ hòn dái dê
Đàn bà con gái ê chề
Cha hăm một tiếng não nề khóc than
Ngai vàng ông kễnh bạo tàn
Thịt xôi ngập ngụa ứa tràn rượu bia
Trẻ con nheo nhóc chầu rìa
Xênh xang chú bác râu ria vẽ vời
Nho gia gặm nhấm chuột dơi
Quân vương thần tử tả tơi bao đời
Cha đần con độn trọng coi
Chữ trung chữ hiếu cọc còi lớn lên
Ủy ban nền móng tà quyền
Phê bình đấu tố bạc tiền vào tay
Ô hay bè lũ cáo cầy
Theo voi nhai bã mặt dầy mãi sao?
Bần nông cốt cán tào lao
Chí Phèo Thị Nở thuốc lào rắm rong
Tớ thày uốn cái lưng cong
Môi trường hủy diệt con mong mỏi gì?
Nha Trang bãi biển rầm rì
Cô hồn ngạ qủy thầm thì cá ơi!
Mẹ cha mấy đứa con trời
Formosa cậy thảnh thơi ô dù
Xứ quân đầu tỉnh ngao du
Gỉa vờ tắm mát u hu suối vàng
Cá nhai không thật rõ ràng
Trò hề lố bịch phũ phàng hại dân
Lạc Hồng con cháu chết dần
Đông Đô đại phố bất thần phình to
Chữ trinh gìn giữ khỏi lo
Bán sang ngoại quốc reo hò mẹ cha
Cu li cửu vạn nước nhà
Lao nô Đài Bắc đô la giảm nghèo
Đồng bào Yên Bái đói meo
Chóp bu xả súng chó mèo chết tươi
Quốc dân hoan hỉ vui cười
Lòng dân ý đảng chơi vơi thế này
Dân oan mất ruộng đất cày
Mẹ gìa liệt sĩ đắng cay thảm sầu
Huân chương chồng chất ngập đầu
Nằm trơ trỏng gọng ngựa trâu xéo dày
Cường hào bá đỏ một bầy
Sai nha nách thước đọa đầy bắt giam
Đường dây mối lái quan tham
Công ty ngoại quốc móc hàm lợn heo
Xóm làng tang tóc đói nghèo
Củ khoai khúc sắn mốc meo hôi rình
Miền Nam ngập ngụa bùn xình
Sông ngòi ngập rác lân tinh chập chờn
Hồn ma đom đóm dập dờn
Nắm xương hài cốt căm hờn thế gian
Ngót gần thế kỷ lường gàn
Bần nông cốt cán nghèo nàn đứng lên
Lợi quyền sao đã chóng quên
Quốc ca thế giới đảo điên giống nòi
Hai bàn tay trắng ngắm coi
Xớt xa thân phận thiệt thòi tấm thân
Cứt Mao chẳng chịu chia phần
Thành phần lý lịch xa gần cha ông
Ưu tiên tổ cuốc ghi công
Xẩu xương cổ cánh tổ tông họ hàng
Học hành trình độ làng nhàng
Hồng hơn chuyên cậy nấc thang cao vời
Thâm niên bổng lộc hơn người
Đầu gà bã đậu sáng ngời vinh quang
Trung thành kiên định vẻ vang
Ăn trên ngồi trống điếm đàng cao sang
Đại gia trọc phú thênh thang
Đảng viên quan lộ rỡ ràng tiến thân
Thờn bơn méo miệng cù lần
Ễnh ương cóc nhái ngu đần tanh hôi
Hiếu trung chó má lên ngôi
Bẽ bàng chữ nghĩa ốc nhồi ngợi ca
Khổng Phu Tử đã viết ra
Lê Nin Các Mác là ma cà rồng
Mẹ cha thế giới đại đồng
Giết nhau như ngóe cờ hồng hôm bay
30.8.2016 Lu Hà
Thưa Đấng Chí Tôn Công Lý
Truờng ca cảm hứng từ trường ca phần 71 của Paul Nguyễn Hoàng Đức
Tâu bệ hạ chí tôn thánh thiện
Thần cá hồi đại diện dân đen
Quê hương lợ ngọt sống quen
Ngược dòng nước chảy luyện rèn dẻo dai
Lời phán dạy tuyền đài thượng giới
Khắp muôn nơi cả tới đại dương
Nhân tâm trải rộng bốn phương
Tình thâm nghĩa cả thính đường trọng coi
Đâu như lũ vịt giời tôm tép
Vốn ngu lâu lép xẹp lương tri
Tuôn trào bọt nhãi phì phì
Nô tài xiểm nịnh nhất nhì thế gian
Chúng giả trá lường gàn phi lý
Bộ tối cao ỷ thế làm càn
Cướp quyền bạo ngược hung tàn
Đoạt câu cưỡng chữ lan man nổ xằng
Lắm ngoa ngữ lăng nhăng cuội đá
Hại nhân quần đả phá thánh hiền
Công khai đập nát chùa chiền
Giáo đường bức hại ngang nhiên lộng hành
Lập tôn giáo gian manh xảo trá
Cạo trọc đầu xỏ lá năm que
Sai nha hội kín quần què
Hiếp dâm cướp của não nề xóm thôn
Bao oan khuất biển cồn sóng vỗ
Ứ trào dâng thiên cổ ngàn thu
Ngục tù nhà đá âm u
Tiếng kêu thảm thiết vi vu gío lùa
Cả xã hội bán mua quan tước
Cậy thâm niên xấc xược khinh khi
Triết gia triết lý là gì
Bỏ ngoài tai hết trí tri xem thường
Nhử bánh vẽ thiên đường hạnh phúc
Lưỡi vô loài bánh đúc không xương
Bồi thơ bồi bút nhiễu nhương
Bồi ca nhảy nhót tán dương độc tài
Nói hay lắm lọt tai thánh thượng
Ngươi cá hồi chủ xướng hiện sinh
Tự do bác ái công bình
Nhân quyền dân chủ hành tinh nhiệm màu
Dạ đúng vậy muôn tâu bệ hạ
Dải miền trung biển cá chết rồi
San hô rồi đến đồi mồi
Muôn loài thủy sản tanh hôi ngập tràn
Kinh khủng qúa giang san tàn lụi
Triệu ngư dân buồn tủi khóc than
Chúng còn đánh đập dã man
Kể chi thiên lý bạo tàn ra tay
Chín mươi triệu lắt lay trước gió
Sống hôm nay chẳng có ngày mai
Ươn hèn nhậu nhẹt lai dai
Mũ ni che kín độc tài càng hăng
Các sắc tộc bồng bang bờ bụi
Nhóm lợi quyền luồn cúi ngoại bang
Phì gia béo hú xênh xang
Thiên triều ban lộc họ hàng phởn phao
Tụi dư luận viên sao bản chép
Nhân giống thành nhãi nhép ma cô
Thanh niên thất nghiệp xô bồ
Tuân theo chỉ thị tung hô bố gìa
Chính danh cũng ra rìa xã hội
Tà giáo ma tăm tối thét la
Gom từ nải chuối qủa cà
Nhà chùa xơi cả con gà mái tơ
Ôi bạo lực xác xơ phố xá
Bản làng xa tàn phá kém chi
Tượng đài nhan nhản thâm xì
Oản xôi hương khói rầm rì lạy cha
Trước thảm cảnh sơn hà nguy biến
Dân cá hồi dâng hiến máu xương
Ba hoa đại cuộc bá vương
Cho ai tọa hưởng Bằng Tường lấn sang?
Hồ sơ mật Nha Trang Vũng Áng
Formosa tội đáng lăng trì
Đài Loan vỏ bọc thầm thì
Công ty gia phụ xầm xì nhỏ to
Thủ phạm chính không lo khai rõ
Còn bao che lếu láo Bắc Kinh
Mặc cho dân chúng bất bình
Đền bù bọt nhãi trá hình lưu manh
Năm trăm triệu cháo hành củ chuối
Lừa trẻ con dưa muối qua ngày
Muối dưa độc hại thế này
Ăn gì cũng sợ dân cày cho qua?
Thưa bệ hạ! Qua loa đại khái
Vẫn chủ trương phải trái mập mờ
Lặng thinh nghị gật lờ đờ
Hàng thần lơ láo dật dờ ngụy gian
Hỏng hỏng hết côn an tráo trở
Xã hội đen hăm hở hoành hành
Cá hồi cam chịu sao đành
Biển Đông ngáp ngáp kinh thành mộ hoang
Bắt Thị Nở nghênh ngang hoa hậu
Răng vẩu phô trình tấu ta hay
Nực cười bè lũ cáo cày
Đủ trò ma mãnh mặt dày tráo trâng
Thần cá hồi xin vậng thánh lệnh
Bầy cá heo mao xếnh xáng sang
Đồng bào dân quốc sẵn sàng
Quân thù cản bước Văn Lang sống còn
Thần hà bá nước non trấn giữ
Tướng thuồng luồng hải cẩu nghe đây
Hoàng Trường Sa của chúng bây
Cớ sao Tàu khựa dựng xây phi trường?
Cũng bởi tại khuyển dương bao cấp
Từ trung ương xuống thấp xã phường
Ủy ban hành chính nhiễu nhương
Rỉ tai mã tấu thê lương não nùng
Chúng mở hội tiệc tùng họp báo
Chỉ ngón tay rắn giáo tuyên tuyền
Thông tin thất thiệt đảo điên
Phóng viên đạo tặc xỏ xiên lọc lừa
Suốt từ sáng tới trưa nhớn nhác
Gà lên truồng phét lác truyền hình
Lục lâm thảo khấu kiêu binh
Chó săn mật vụ rập rình nửa đêm
Còn đâu nữa êm đềm trăng sáng
Lo miếng ăn cay đắng xót xa
Luật rừng thuế khóa quan nha
Cường hào bá đỏ ác ma búa liềm
Xác cá trắng quanh thềm lục địa
Còn hững hờ ngắm nghía vui chơi
Liều mình chúng rủ nhau bơi
Vịt vờ ăn cá bia hơi tràn trề
Cười ha hả thủy tề ngặt nghẽo
Trốn nhân gian lắt léo mặt mo
Nhiễm trùng nhiễm độc khỏi lo
Danh y bầy đảng kéo co tật nguyền
Hơn ba triệu đảng viên răm rắp
Vẫn ngu lâu lắp bắp táo lê
Bao giờ cho hết u mê
Bệnh này khó chữa chán chê cá hồi
Tâu thánh thượng xin thôi đừng hỏi
Kẻ thảo dân buốt nhói tim gan
Triết gia cũng lắm gian nan
Bữa no bữa đói bần hàn khổ đau
Cua cáy khóc vườn rau thấm độc
Cánh đồng khô thảm khốc vành tang
Hồn ma tức tưởi lang thang
Không nơi nương tựa khói nhang ăn nhờ
Cửa chùa đóng hững hờ sư sãi
Áo cà sa đâu phải Phật Đà
Quốc doanh ẩn nấp dâm tà
Mắm tôm thịt chó thướt tha má mì
Sống quằn quại li bì trác táng
Khoe chân dài tới háng không quần
Sa tanh nhõng nhạo cò cưa
Đường dây nóng bỏng say xưa ngựa đàn
Dân tộc Việt ngỗng nhan cạc cạc
Chú ba Tàu bạc nhạc thịt xay
Đông Đô đại phố cuồng say
Bánh bao sủi cảo lăn quay ra đường
Mì mằn thắn bất lương bày bán
Rau quả ôi tủi hận nhuốc nhơ
Phương Tây tư bản nằm mơ
Kiếp đời Đại Lãn trỏng trơ há mồm
Mặc kệ nó chồm hôm uống gió
Tưởng mình khôn khốn khó thế này
Chết dần cà cuống còn cay
Toàn cầu chỉ trỏ dân này lạ thay
Long chúa phải xua tay vội ngắt
Thần cá hồi lật đật tới đây
Chứa chan cốc lệ tràn đầy
Biết làm sao được cứu bầy cừu đen
Mấy thập kỷ ươn hèn cam chịu
Con thiêu thân líu ríu chiến trường
Miền Nam giải phóng khoa trương
Vẫn chưa tỉnh ngộ còn chường mặt ra
Ra ngoại quốc đô la giành giật
Gái bán thân trai bất lực nhìn
Công ty môi giới kìn kìn
Lao nô chật cửa trăm nghìn mánh mung.
1.9.2016 Lu Hà
Trời Không Có Mắt Hay Sao?
cảm đối Trường Ca phần 69 của Paul Nguyễn Hoàng Đức
Cá hồi bảy nổi ba chìm
Cùng thuyền bao kẻ cánh chim hải hồ
Bảo nhau nhìn lại cơ đồ
Giật mình lo sợ sóng xô khối sầu
Cầu xin thượng đế sống lâu
Trời gìa cay nghiệt cơ cầu hồng nhan
Ngậm ngùi gánh nợ trần gian
Môi trường hủy diệt ngập tràn xương phơi
San hô thối rữa tả tơi
Trời không có mắt cảnh đời lầm than
Ngư dân chài lưới gian nan
Màn trời chiếu đất nghèo nàn khổ đau
Qủa cà con tép lá rau
Thủy chung ai bảo trước sau vẹn tròn
Than ôi! Sông núi nước non
Ngày nay tang tóc biết còn hồi sinh?
Hồ ao kênh rạch đầm xình
Phố phường chật hẹp điêu linh não nùng
Dọc bờ cát trắng chập chùng
Trương phềnh xác cá rợn rùng hồn ma
Tập đoàn khai thác quan nha
Công ty ngoại quốc phá nhà cửa ta
Dân oan khiếu kiện kêu la
Đền bù rẻ mạt xót xa phận hèn
Nửa gìa thế kỷ bon chen
Vào Nam ra Bắc ho hen tủi sầu
Xanh xao râu tóc bạc đầu
Đổ cho kiếp phận bể dâu mịt mù
Nghìn năm nô lệ hận thù
Xích xiềng cùm kẹp cơm tù đòn roi
Thánh hiền chằng chịu xem coi
Tổ tiên khinh bạc lẻ loi xứ người
Mù lòa tròng mắt không ngươi
Tin thằng phỉnh nịnh nặng lời nước non
Đười ươi chễm trệ sơn son
Bảng vàng bán nước tôi con điếm đàng
Sống dai lên tới lão làng
Kiêu căng lắm tuổi bẽ bàng lợn heo
Tre gìa măng mọc quắt queo
Coi thường giáo dục óc teo tự hào
Giàu sang phú qúy ra vào
Tiền nhiều của lắm bướm đào phởn phao
Thành phần vô lại rêu rao
Có thân nhân tốt thế nào cũng xong
Cha ông uốn éo lưng cong
Cam tâm chịu nhục cầu phong ngụy tàu
Ươn hèn bè phái tranh nhau
Xứ quân đầu tỉnh nát nhàu lương tâm
Lắm trò ma quái mưu thâm
Muôn tâu bệ hạ có tầm nhìn xa
Thủy tề ngao ngán lệ sa
Cá hồi khải tấu rằng ta cũng hèn
Đại dương xây đảo lấn chen
Phi trường hải đội thổi kèn xua quân
Lưỡi bò dài ngoẵng liếm dần
Việt Nam phiên thuộc bán thân tôi đòi
Bỗng đâu thị vệ cá mòi
Khấu đầu trăm lạy cọc còi khúc đuôi
Biển này độc hại lắm rồi
Làm sao sống nổi tanh hôi nặng mùi
Công ty tàu khựa đổ chui
Ngấm ngầm khí độc chôn vùi thủy cung
Dồn cho dân Việt khốn cùng
Hết đường sinh sống hãi hùng cháu con
Bố gìa bộ sậu lon ton
Thiên triều van lạy bồ hòn nuốt trôi
Quản chi mặt thớt tanh hôi
Miếng ăn qúa khẩu nhặng ruồi lao xao
Thuồng luồng hà bá nghẹn ngào
Làm sao trị nổi cường hào trần gian
Cá voi nức nở khóc than
Vợ con nheo nhóc bần hàn biển Đông
Tò te kèn thổi cánh đồng
Khói nhang nghi ngút Lạc Hồng diệt vong
Còn đâu nòi giống mà mong
Theo đòi chữ Hán uốn cong lưỡi bò
Khổ thân cho cái thân cò
Rồng tiên nuối tiếc lần mò cá tôm
Kìa Mao Xáng Xế chồm hôm
Cầu tiêu lõm tõm chó xồm nhanh hơn
Kêu trời trách đất oán hờn
Ung thư cổ chướng chờn vờn bóng ma
Còn đâu vọng cổ hát ca
Bắc Ninh Quan Họ vịt gà xác xơ
Không nơi nương tựa bơ vơ
Cô hồn dắt díu mịt mờ vi vu
Chuông chùa hảo lớ âm u
Ăn mày cửa Phật thày tu ba Tàu.
2.9.2016 Lu Hà
Trường Ca Thằng Việt Ăn Non
cảm đối từ Trường Ca phần 73 của Paul Nguyễn Hoàng Đức
Ai thương thằng Viêt cọc còi
Nghìn năm chẳng lớn nhỏ nhoi thế này?
Thái Lào Miên phổng phao thay
Lom khom cụ cố đắng cay hắt sì
Quay đầu thiển cận thầm thì
Sơn La Thanh Hóa xầm xì Nghệ An
Phều phào ngoặm đất khóc than
Phò me ngỏng tĩ ngập tràn miệng vô
Côn trùng giun dế cũng vồ
Tầm nhìn trán thấp ô hô đói nghèo
Kim Ngân quốc hội ngáy đèo
Liệt dương Phú Trọng tóp teo theo Tàu
Đại Quang, Xuân Phúc ướt nhàu
Nhân tài khánh kiệt vàng thau dật dờ
Chủ trương chính sách lờ mờ
Trường Sơn bộ đội i tờ hành quân
Bánh bao xã nghĩa nhai dần
Nha Trang cá chết cù lần cha ông
Formosa mới chổng mông
Són vài cục nhão phấn hồng thướt tha
Lăm le mật vụ mã tà
Con tin cưỡng ép qua loa nhận bừa
Bắc Kinh thủ phạm rõ chưa?
Bợp tai đá đít cò cưa nhặng ruồi
Trực thăng kỷ thuật săn mồi
Dấu đầu thì lại thòi đuôi ra ngoài
Hoa Kỳ cũng chẳng đoái hoài
Còn đâu bọ chó thài lài Nga- Trung
Hết rồi khai thác mánh mung
Ngai vàng tập thể tiệc tùng than ôi!
Vào ra hết đứng lại ngồi
Nhanh tay ám toán thịt xôi còn đầy
Cáo cầy Yên Bái thối thây
Thịt ngay ba mạng quan thầy ôm chân
Ăn non đục khoét hại dân
Tiếp tay lâm tặc bán thân tôi đòi
Biển đông cá nước mặn mòi
Toàn dân oán hận giống nòi diệt vong
Xót xa dải đất cong cong
Xem ra phong thủy hết mong đợi rồi
Phân Mao giòi bọ tanh hôi
Đấu tranh giai cấp nổi trôi bọt bèo
Lê Nin Các Mác chó mèo
Quay lưng ra biển đói nghèo tiêu tan…
Mau mau cứu lại giang san
Việt Nam ta hỡi trăm ngàn non sông
Nào ai con cháu Lạc Hồng
Chắt chiu giọt máu tiên rồng quên sao?
Tha phương tỵ nạn đồng bào
Việt kiều hải ngoại nghẹn ngào thở than
Xót xa quốc nội bần hàn
Ổi xanh củ chuối nghèo nàn khổ đau
Quả cà tôm tép lá rau
Trẻ con tóp đít theo nhau chào đời
Cường hào bá đỏ nói cười
Công trình rút ruột chuột dơi tượng đài
Nửa già thế kỷ lạc loài
Từ hang Pắc Bó thiện tai cửa chùa
Nghênh ngang ngất nghểu bốn mùa
Khói hương nghi ngút bán mua thánh thần
Xứ quân đầu tỉnh tranh phần
Tài nguyên kiệt quệ ăn phân Mao đồ
Kiêu binh dư luận ma cô
Mắm tôm bọc thối lô nhô điếm đàng
Ăn mày chống gậy lang thang
Phen này bị cói nhịp nhàng giá cao
Thanh niên cờ đỏ tào lao
Hung hăng cắn xé chó ngao sổng chuồng
Sá chi đầm rạch ao chuông
Ngấm ngầm sả độc à uông chính quyền
Cá ươn thịt thối vì tiền
Ung thư cổ chướng trứng chiên sặc mùi
Đảng viên nuối tiếc sụt sùi
Ôm nhau chú phỉnh ngậm ngùi sổ hưu
Lão thành cách mạng sưng bừu
Sa đì khệnh khạng lắm mưu nhiều trò
Bà Năm bắt tép nuôi cò
Cò ăn cò lớn cò dò lên cây
Nghe theo cố vấn bài bây
Đền ơn phát súng tan thây ngậm hờn
Giảm tô cải cách chờn vờn
Mồng hai tháng chín dập dờn hồn ma
Nghe theo đảng mafia
Khổ thân thằng Việt nhà ta cọc còi
Toàn cầu chỉ trỏ ngó coi
Cười thằng cu Viêt miệng hoi sữa bò
Lưỡi dài đại hán thập thò
Biển Đông liếm sạch chẳng cho đảo nào
Ngư dân lưới rách xanh xao
Xóm làng xơ xác chào mào chìa vôi
Lần mò bãi rác tanh hôi
Vợ đào chồng bới than ôi cuộc đời
Oán than chỉ biết kêu trời
Trời cao vời vợi biết nơi nẻo nào
Bon chen phận liễu má đào
Làm dâu xứ lạ ruột cào dạ đau
Công ty xuất khẩu tranh nhau
Cò mồi môi giới cai thầu sai nha
Vay tiền thế chấp cửa nhà
Lao nô khổ ải bê tha xứ người.
31.8.2016 Lu Hà
ThíchThích
SÀI GÒN THỦ ĐỨC
*
Sài Gòn Thủ Dức cái Củ Chi
Hồ Chí Minh di phẩn bắc kì
Nguyễn Thị Minh Khai phân Bến Dược
Lê Hồng Phong độc cắm sừng bi
*
Năm canh thức đủ đạn chì Ba Đình Hà Nội hai thì Mác Lê Nin
Di cư giáo xứ Bắc Ninh
Bắc Kinh đuổi tận Hoa Kỳ vẫn chưa tha
Thăng Long đủ thức thịt thà làm xương cho sáo cúng Cha già đáng yêu
*
Hàm Rồng nhất tiển xạ song điêu
Mộng Sở Bá Vương Vương Thúy Kiều
Đi B Đổng Trác Kim Ngân Trọng
Bần khinh Phú Trọng lú quái chiêu
*
Cần Thơ tổng bí Ninh Kiều suy Tôn Nữ Thị Ninh chiều chiều Hàm Luông
Tam Tòng Thị Phóng thuồng luồng
Râu dê đuôi ngựa chông truông Đảo Mắt cừu
“Sái Công Đề Ngạn” nghỉ hưu lấy tay mà móc oan cừu bễ chứa oan
*
TÂM THANH
ThíchThích
Một bài quá hay và chính xác!
ThíchThích